Phải chăng trận Phước Bình là trận nghi binh? Chiếm được Phước Bình. Cộng quân có thể mở đường tấn công Biên Hòa. Cuối cùng, vào ngày 5 tháng giêng, 120 biệt kich quân được trực thăng vận tới phía đông thị xã. Biệt kích quân đã giao tiếp được với quân trú phòng, chiếm lại được một số vị trí và dinh tỉnh trưởng. Lúc 9 giờ tối, sài gòn được biết rằng một số nửa biệt kích đã bị loại, không thể di tản các thương binh. Ngày hôm sau, Bắc Vệt đưa thêm quân và chiến xa vào trận địa. Trận đánh khốc liệt diễn ra trọn ngày.
Kể từ giờ phút này, Thiếu Tá Phạm Cang, TĐT/TĐ7 nắm quyền Xử Lý Thường Vụ Lữ Đoàn Trưởng LĐ 147 TQLC. Theo kế hoạch của ông thì TĐ7 bung rộng ra, sẽ là nốt chặn cuối cùng, làm an toàn bãi bốc cho các TĐ bạn và TĐ7 sẽ là đơn vị cuối cùng lên tàu sau TĐ4, TĐ3, TĐ5 TQLC. Rất tiếc là chẳng có chiếc tàu nào vào bốc kể từ đó mặc dù đến chiều vẫn có lệnh là 8 giờ tối sẽ có tàu vào, rồi đến tối lại có lệnh là 12 giờ khuya sẽ có tàu vào…và chẳng bao giờ có tàu HQ vào đón chúng tôi. Đứng trên cát, tứ bề nước mênh mông, không nước, không đạn, nhưng chúng tôi còn có cấp chỉ huy và đồng đội.
Sau khi đến khu rừng cao su, ngay sang hôm sau, tôi xử dụng xe Jeep cùng mấy sĩ quan tham mưu đến vị trí tiền tuyến của đơn vị bạn để hỏi thăm tin tức và thám sát tình hình tại chổ. Xe của chúng tôi đã được địch chào mừng bằng hàng loạt đạn súng cối tới tấp trên đường nhưng rất may bình yên. Trở về trong ngày hôm đó, tôi xin BTL/QĐ3 cấp một chiếc trực thăng cùng các TĐT thuộc quyền bay lên thám sát chiến trường.
Lệnh ngưng tác xạ vang lên trên hệ thống… vừa khi mấy phi tuần vừa chấm dứt nhưng vẫn còn đâu đó tiếng gầm thét trên không trung… Tôi nghe trên tần số tiếng Phúc Con và ĐT Hà cùng ĐĐ21 và ĐĐ22 tapi chiếm đồi 126, 383 và 400, tôi còn nghe tiếng xung phong, tiếng điều động tràn lên chiếm mục tiêu vang vang trên máy, cuộc chiến đấu giành lại ngọn đồi như thế chẻ tre… tôi cũng lặng người khi nghe trên tầng số báo cáo TĐ2/ND vừa mất đi 2 SQ trẻ là Tạ Thái Bảo và Thiếu Úy Tăng Thành Lân, đã anh dũng hy sinh trên ngọn đồi 126…
Bỏ lại cây AK mà Hiệp đưa hết đạn rồi, hỏa lực còn lại 2 M16 với 2 băng đạn và Colt 45. Tôi dẫn đầu với chiếc la bàn trong tay người sau vịn vai người trước. trời tối đen như mực chúng tôi lên đường. Đi suốt đêm tới trời sáng, cẩn thân băng qua trảng tranh lớn tôi hối đi nhanh để vào lại trong rừng thì nghe tiếng gọi Nhảy Dù, Nhảy Dù. Xa chừng khoảng 30 mét là hai bộ đồ ND đứng lên từ bụi cây thấp kêu chúng tôi. Đó là 2 ND của TĐ5 thất lạc mấy ngày rồi gặp chúng tôi nên mừng lắm.
Trời đã xế trưa, tôi bắt đầu gọi về pháo đội chuẩn bị điều chỉnh cận phòng và các điểm cần thiết, đề phòng bất trắc cho đêm nay, đồng thời gọi lên 207, ám danh của vị SQ mới lên thay thế trên ĐQS, để hỏi thăm động tĩnh đáng nghi quanh đồi 52 và chi khu Thường Đức, 207 cũng đã ghi nhận các vị trí T54 và cho hay chúng vẫn còn ẩn mình, nhưng hiện rất rỏ dưới lưỡng kính viễn mục, tôi cũng yêu cầu 207 chấm chính xác tọa độ cấm chỉ của chúng và gởi về pháo đội để khi cần sẽ có ngay… tôi bắt đầu đi một vòng xem tình hình chung quanh, mọi vật thật là yên tĩnh.
Điều làm tôi cảm động nhất, là ngay giữa tư gia, anh trịnh trọng trưng lá hiệu kỳ lớn của Sư Đoàn 23 BB. Đơn vị mà tôi đã hơn 10 năm phục vụ, và có biết bao đồng đội hy sinh, còn anh thì suốt cả một thời làm phi công, đã luôn ở trên vùng trời để yểm trợ chúng tôi. Và đặc biệt nhất là bào đệ của anh, TS1 Lê Xuân Bích, người em yêu quý mà anh cùng có nhiều kỷ niệm tuổi thơ, đã hào hùng nằm xuống vào mùa Hè 1972 tại chiến trường Kontum, máu đào tô thắm cho lá hiệu kỳ này.
Ngày 6 Tháng Giêng, quân Bắc Việt pháo trên 1,000 quả đạn, dọn đường cho trận cuối cùng vào Phước Long. Lực lượng trú phòng tiếp tục chống cự, nhưng nửa đêm hôm đó Phước Long đã thất thủ sau khi cầm cự được gần bốn tuần – từ 13 Tháng Mười Hai, 1974 tới 6 Tháng Giêng, 1975.
Trong cuộc chiến kéo dài 20 năm, Phước Long là tỉnh lỵ đầu tiên bị mất.
Căn cứ Anne thật sự nằm về phía Nam sông Thạch hãn cách Quốc Lộ 1 khoảng chừng 10 cây số đường chim bay. Căn cứ nầy nằm trên ngọn đồi trọc (cao độ 275) mang địa danh có vẽ huyền bí “ Động Ông Đô “ Nhưng thật ra đây chỉ là dãy đồi trọc, cao, ít cây cối, chạy theo hướng Nam-Bắc. Về hướng Tây nối tiếp với những dãy đồi cao trùng điệp tiếp giáp với rặng Trường Sơn. Về hướng Đông trải dài từ vùng đồi Trường phước là những dãy đồi thấp, có nhiều cây- cỏ tương đối rậm rạp và cao dần đến chân núi Động Ông Đô. Hướng Bắc là sông Thạch hãn. Từ cao điểm nầy ta có thể kiểm soát toàn bộ vùng phía Tây thị xã Quảng Trị, dọc theo dòng sông Thạch Hãn và cả vùng phía Tây của thị trấn Ái Tử và chi khu Cam Lộ, Đông Hà.
Trời mới tối, pháo địch bắt đầu gia tăng. tiếng đạn bay xèo xèo trên không, tiếng nổ ì ầm vọng lại, thỉnh thoảng nghe được toán ục-ục của đạn delay đang xé đất bắn lên tung tóe. chúng tôi sợ nhất loại này, bị pháo trúng, nó sẽ xuyên nấp hầm, chui vào rồi mới nổ thì sẽ không ai toàn mạng. Trong suốt ba tháng ở An Lộc, TTHQ không bị trúng loại đạn này, mà… ngay trong đêm nói trên, tôi đang trực thế để anh Năng đi ngủ, thình lình một tiếng nổ ầm rung chuyển cả TTHQ, khói bay mù mịt, tiếng ho sặc sụa hòa lẫn với tiếng rên la của một số binh sĩ bị thương vì trúng miểng pháo.
Hoàng hôn ngày 27 tháng 4 năm 1975, giữa khung trời còn âm u khói từ kho bom phi trường Biên Hòa bị nổ trước đó vài ngày, tôi đứng bên nầy hàng rào nhìn hàng chục chiếc trực thăng cất cánh rời bỏ phi trường. Thế là hết, ẩn ý như một lời vĩnh biệt...đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy những cánh chim ấy, những cánh chim đã cùng chúng tôi trải qua bao gian nguy.
Bây giờ những cánh bay ấy có thể đã nằm mục rã ở một vài bãi phế thải nào đó, hoặc nằm sâu dưới đáy biển sau lần bay cuối cùng, hay may mắn hơn được nằm trong các viện bảo tàng chiến tranh. Nhưng những con người điều khiển chúng vẫn còn nhiều, lòng yêu nước và tinh thần dấn thân vẫn còn và mơ ước một ngày nào đó được bay trên vùng trời Tổ Quốc Việt Nam Tự Do .
Xuất phát từ vùng tập trung quân sát biên giới Việt-Miên thuộc tỉnh Châu Đốc, từ sáng sớm ngày 9 Tháng Năm, 1970, Lực Lượng Đặc Nhiệm Thủy Bộ 211 của Hải Quân và TQLC VNCH đã ngược sông Mekong đổ quân tiến chiếm bến phà Neak Loeung trong buổi trưa cùng ngày. Dọc theo lộ trình hành quân trên sông, đoàn giang đỉnh thỉnh thoảng đụng phải những tử thi của Việt kiều bị “cáp duồn” nổi lềnh bềnh và trôi xuôi về hạ lưu theo dòng nước. Cuộc đổ bộ chiếm đầu cầu bến phà Neak Loeung đã gây bất ngờ cho địch, khiến Cộng Quân chỉ chống cự yếu ớt rồi vội vã rút lui, không kịp mang theo các kho súng ống, đạn dược và đồ tiếp liệu từ căn cứ của họ.
Tiếng súng giao tranh nổ vang cả một góc rừng, tôi cho lịnh xung phong bất kể địch quân là bao nhiêu, những tên việt cộng gần nhất bị bắn hạ ngay loạt đạn đầu tiên... chúng tôi đánh tràn qua thuận đường rút lui. Trên chiếc xe Truck chứa đầy thùng gỗ không biết vũ-khí hay lương thực vì trời quá tối, xác vài tên việt cộng nằm vắt ngang... mặc kệ chiến lợi phẩm, tôi chỉ tịch thu một chiếc cặp da chứa tài liệu và phóng đi thật nhanh. Vì đêm tối, chúng tôi sợ lạc nhau nên chỉ đi một hàng dọc, cả hai cánh liên lạc chặc chẽ với nhau, đoàn người cứ lặng lẽ đi như những bóng ma. Gần nửa đêm, vì quá tối nên chúng tôi dùng những mảnh cây mục có lân tinh cắm vào ba lô để người đi sau nhìn thấy người đi trước cho khỏi lạc. Khoảng 03:00 giờ sáng chúng tôi dừng lại nghỉ vì quá mệt, đến 05:00 giờ sáng lại tiếp tục di chuyển.
Khi các lực lượng tấn công sắp sửa tràn ngập đồn, vị trưởng đồn đã yêu cầu các phản lực cơ F-4 Phantom của Không Quân Mỹ hãy đánh bom thẳng vào đồn thay vì chỉ thả bom yểm trợ bên ngoài vòng rào, để họ và các chiến sĩ Địa Phương Quân đang tử thủ cùng chết với lực lượng Cộng Sản có quân số đông gấp bội phần. Sau khi phải bất đắc dĩ thi hành nhiệm vụ, các phi công Mỹ cũng ngậm ngùi đồng ý với các phi công Việt Nam rằng đây là một Alamo thứ hai trong chiến tranh, ý muốn nhắc đến trận đánh bi hùng tại Alamo, Texas, vào năm 1836, khi hơn 100 binh sĩ trú phòng của Cộng Hòa Texas (lúc chưa gia nhập Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ) bị các lực lượng Mexico bao vây và tiêu diệt nhưng quân trú phòng đã tử thủ và chiến đấu cho tới viên đạn cuối cùng chứ không một ai đầu hàng quân địch.
Nguyên tắc hành quân của Nhảy Dù là một tiểu đoàn gồm bốn đại đội, được chia ra gồm hai tiểu đoàn thì với sự chỉ huy của tiểu đoàn trưởng (bộ chỉ huy của tiểu đoàn) và hai đại đôi với sự chỉ huy của tiểu đoàn phó, được chia ra thành hai cánh để hành quân. Toán Quân Y được đi theo cánh của bộ chỉ huy tiểu đoàn.
Trên đường tiến vào An Lộc thì các đại đội đi đầu đã đụng trận với địch quân ngay tại rừng cao su, rồi sau đó, cả tiểu đoàn đều đụng trận với địch quân với nhiều trận đánh rất ác liệt. Đang đụng trận thì Tiểu Đoàn 1 được lệnh rút quân khỏi An Lộc để về giải tỏa Quảng Trị. Tiểu đoàn vừa đánh, vừa rút quân từ từ, và đoàn Quân Y phải đi theo đơn vị cuối cùng trên đường di tản khỏi An Lộc.
Đại lộ kinh hoàng là tên không chánh thức cho một đoạn đường dài khoảng 9 km tại tỉnh Quảng Trị. Đoạn đường nầy nằm trên Quốc lộ 1, phía Nam thị xã Quảng Trị, thuộc quận Hải Lăng. Vào mùa Hè năm 1972 , quân đội Cộng sản Bắc Việt với quân số hơn 3 Sư Đoàn đã đồng loạt vượt sông Bến Hải đánh chiếm hàng loạt các căn cứ đóng quân của nhiều đơn vị Quân lực Việt Nam Cộng Hòa . Hàng ngàn người vừa lính vừa dân đã bị Bắc quân thảm sát trên đoạn đường oan nghiệt nầy .
Cậu nào, cậu nấy nằm chết như mơ, y như trong bài ca, nào là băng ca, hòm gỗ, hoa cườm hay Poncho, thẻ bài, trực thăng… Cậu nào cũng trẻ măng. Cậu nào cũng được truy thăng một cấp. Cậu nào cũng có người yêu. Người thì chưa cưới, người thì đã có hai ba con. Nói tiếng cả ba miền Nam, Trung và Bắc. Những gia đình khóc nhầm quan tài, khi được chỉ chỗ di chuyển tìm đúng xác người thân thì tiếng khóc lại òa lên. Thấy cảnh hàng trăm gia đình đi nhận xác chồng như thế thì lòng dạ nào ăn ngủ cho yên.
Phước Long là một tỉnh nhỏ, dân chúng đa số là đồng bào sắc tộc Stieng và Mnong.
Cả tỉnh chỉ có 5 tiểu đoàn địa phương quân, một tiểu đoàn pháo binh, cảnh sát và dân vệ, tất cả ước chừng 2.000 người và đa số là người sắc tộc.
Lực lượng tăng cường gồm hai tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 5, ba đại đội trinh sát thuộc các Sư đoàn 5, 18 và 25, hai biệt đội Biệt kích 81 Dù và đơn vị tình báo 101 thuộc Phòng 2 Bộ Tổng Tham mưu. Tổng số binh sỹ tham dự trận đánh chưa tới 4.000 người.
Không lực yểm trợ bị giới hạn vì cùng lúc phải bảo vệ hai tỉnh Tây Ninh và Phước Long. Còn vũ khí đạn dược phụ thuộc vào không vận và chỉ đủ chiến đấu một tuần.
Tống Lê Chân bị tấn công kể từ ngày 10 Tháng Năm, 1972. Vào thời điểm khốc liệt ấy, những dàn phòng không dày đặc của địch thực sự đã kiểm soát được vòm trời của căn cứ, gây không ít trở ngại cho Không Quân VNCH khi phải thực hiện các phi vụ tiếp tế và yểm trợ.
Giống như tình trạng tại An Lộc, trong những ngày đầu bị vây hãm, mọi tiếp tế lương thực và đạn dược đều được thực hiện bằng cách thả dù. Nhưng hầu như chỉ một nửa rơi vào vòng phòng thủ của ta và phần còn lại thì rớt xuống vùng của địch. Thế mà Tống Lê Chân vẫn đứng lừng lững, dũng cảm và hiên ngang với nhiệm vụ chận đứng mọi sự chuyển quân của Việt Cộng từ Cambodia xuống phía Nam, cứ điểm này chính là một vị trí chiến lược, trở thành một tiền đồn trọng yếu trong việc phòng thủ Sài Gòn.
Trên mặt đường nhựa, xác người dân nằm la liệt, ngổn ngang. Thây người chết ở mọi tư thế khác nhau, nằm sấp, nằm ngửa, nghiêng. Xác thì chân tay dang ra, xác thì chân hay tay co lại. Xác nầy chồng lên xác kia, dồn đống, có xác một mình co quắp bên lề đường… Cái mất đầu, cái mất tay, mất chân.
Có xác đàn ông, có xác đàn bà, có xác trẻ em, có xác không còn nhìn ra là đàn ông hay đàn bà nữa. Không thể nào tả hết được!!!
Đoạn đường Việt Cộng giết người nầy, xảy ra ngay ngày Việt Cộng chiếm thành phố Quảng Trị, ngày 1 Tháng Năm, năm 1972 và những ngày tiếp sau đó.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.